Tết
Nguyên
Đán
Một
năm,
người
Việt
có
nhiều
lễ,
tết,
riêng
Tết
Nguyên
Đán
(đúng
mồng
một
tháng
giêng
âm
lịch)
là
ngày
tết
lớn
nhất
nên
còn
được
gọi
là
tất
cả.
Đây
là
thời
điểm
kết
thúc
mùa
màng,
mọi
người
rảnh
rỗi
nghỉ
ngơi
vui
chơi,
thăm
viếng
lẫn
nhau...
và
cũng
là
lúc
giao
thời
của
đông
tàn
xuân
tới.
Theo
phong
tục
cổ
truyền
VN,
Tết
Nguyên
Đán
trước
hết
là
tết
của
gia
đình.
Chiều
30
tết,
nhà
nhà
làm
lễ
cúng
"rước"
gia
tiên
và
gia
thần,
thể
hiện
tình
cảm
uống
nước
nhớ
nguồn.
Trong
3
ngày
tết
diễn
ra
3
cuộc
gặp
gỡ
lớn
ngay
tại
một
nhà.
Thứ
nhất
là
cuộc
"gặp
gỡ"
của
các
gia
thần:
Tiên
sư
hay
Nghệ
sư
-
vi
tổ
đầu
tiên
dạy
nghề
gia
đình
mình
đang
làm.
Thổ
công
-
thần
giữ
đất
nơi
mình
ở
và
Táo
quân
-
thần
coi
việc
nấu
ăn
của
mọi
người
trong
nhà.
Thứ
hai
là
cuộc
"gặp
gỡ"
tổ
tiên,
ông
bà...
những
người
đã
khuất.
Nhân
dân
quan
niệm
hương
hồn
người
đã
khuất
cũng
về
với
con
cháu
vào
dịp
Tết.
Thứ
ba
là
cuộc
gặp
gỡ
của
những
người
trong
nhà.
Như
một
thói
quen
linh
thiêng
và
bền
vững
nhất,
mỗi
năm
tết
đến,
dù
đang
ở
đâu
làm
gì...
hầu
như
ai
cũng
mong
muốn
và
cố
gắng
trở
về
đoàn
tụ
với
gia
đình.
2.
Tết
Khai
hạ
Theo
cách
tính
của
người
xưa,
ngày
mùng
Một
tháng
Giêng
ứng
vào
gà,
mùng
Hai
-
chó,
mùng
Ba
-
lợn
mùng,
Bốn
-
dê,
mùng
Năm
-
trâu,
mùng
Sáu
ngựa,
mùng
Bảy
-
người,
mùng
Tám
-
lúa.
Trong
8
ngày
đầu
năm
cứ,
ngày
nào
sáng
sủa
thì
coi
như
giống
thuộc
về
ngày
ấy
cả
năm
được
tốt.
Vì
vậy,
đến
mùng
Bảy,
thấy
trời
tạnh
ráo
thì
người
ta
tin
cả
năm
mọi
người
sẽ
gặp
may
mắn,
hạnh
phúc.
Mùng
Bảy
kết
thúc
Tết
Nguyên
Đán
thì
cũng
là
lúc
bắt
đầu
Tết
Khai
hạ
-
Tết
mở
đầu
ngày
vui
để
chào
mùa
Xuân
mới.
3.
Tết
Thượng
nguyên
Tết
Thượng
nguyên
(Tết
Nguyên
tiêu)
vào
đúng
rằm
tháng
Giêng-ngày
trăng
tròn
đầu
tiên
của
năm.
Tết
này
phần
lớn
tổ
chức
tại
chùa
chiền
vì
Rằm
tháng
Giêng
còn
là
ngày
vía
của
Phật
tổ.
Thành
ngữ:
Lễ
Phật
quanh
năm
không
bằng
Rằm
tháng
Giêng"
xuất
phát
từ
đó.
Sau
khi
đi
chùa,
mọi
người
về
nhà
họp
mặt
cúng
gia
tiên
và
ăn
cỗ.
4.
Tết
Hàn
thực
"Hàn
thực"
nghĩa
là
ăn
đồ
nguội.
Tết
này,
vào
ngày
mùng
Ba
tháng
Ba
(âm
lịch).
Thời
Xuân
Thu
ở
Trung
Quốc,
Công
tử
Trung
Nhĩ
(về
sau
là
vua
Tấn
Văn
Công)
khi
gặp
cảnh
loạn
lạc,
đói
quá,
được
Giới
Tử
Thôi
cắt
thịt
đùi
mình
nấu
dâng
cho
ăn.
Sau
19
năm
phiêu
bạt,
Trung
Nhĩ
lại
trở
về
nắm
giữ
vương
quyền
nước
Tần.
Vua
ban
thưởng
cho
tất
cả
những
người
đã
cùng
mình
nếm
mật
nằm
gai,
nhưng
lại
quên
mất
Tử
Thôi!
Tử
Thôi
đưa
mẹ
vào
sống
ở
núi
Điền.
Lúc
vua
nhớ
ra,
cho
người
tới
mời
mà
không
được.
Vua
sai
đốt
rừng
để
Tử
Thôi
phải
ra.
Nhưng
Tử
Thôi
không
chịu
và
hai
mẹ
con
cùng
chết
cháy!
Đau
xót,
vua
sai
lập
miếu
thờ
trên
núi.
Hôm
ấy
đúng
ngày
mùng
Ba
tháng
Ba.
Người
đời
thương
Tử
Thôi
nên
mỗi
năm,
đến
ngày
đó
thì
kiêng
đốt
lửa
mà
chỉ
ăn
đồ
nguội
đã
nấu
sẵn.
Từ
thời
Lý
(1010
-
1225)
nhân
dân
ta
đã
tiếp
nhập
Tết
này
và
thường
làm
bánh
trôi,
bánh
chay
để
thay
cho
đồ
nguội.
Nhưng
mục
đích
chủ
yếu
là
để
cúng
gia
tiên
chứ
ít
ai
rõ
chuyện
Giới
Tử
Thôi!
Hiện
nay,
Tết
này
vẫn
còn
đậm
nét
ở
miền
Bắc,
nhất
là
tại
các
vùng
thuộc
tỉnh
Hà
Tây.
5.
Tết
Thanh
Minh
"Thanh
Minh
trong
tiết
tháng
Ba
Lễ
là
tảo
mộ,
hội
là
đạp
thanh"
(truyện
Kiều)
"Thanh
Minh"
có
nghĩa
là
trời
trong
sáng.
Nhân
có
người
ta
đi
thăm
mồ
mả
của
những
người
thân.
Tết
Thanh
minh
-
thường
vào
tháng
Ba
âm
lịch
-
trở
thành
lễ
tảo
mộ.
Đi
thăm
mộ,
nếu
thấy
cỏ
rậm
thì
phát
quang,
đất
khuyết
lở
thì
đắp
lại
cho
đầy...
rồi
về
nhà
làm
cỗ
cúng
gia
tiên.
6.
Tết
Đoan
ngọ
Tết
Đoan
ngọ
(Tết
Đoan
dương)
vào
mùng
Năm
tháng
Năm
(âm
lịch).
Khuất
Nguyên
-
nhà
thơ,
một
vị
trung
thần
-
do
can
ngăn
vua
Hoài
Vương
không
được,
đã
uất
ức
gieo
mình
xuống
sông
Mịch
La
tự
vẫn.
Hôm
ấy
đúng
là
mùng
Năm
tháng
Năm.
Thương
tiếc
người
trung
nghĩa,
mỗi
năm
cứ
đến
ngày
đó,
dân
Trung
Quốc
xưa
lại
làm
bánh,
quấn
chỉ
ngũ
sắc
bên
ngoài
(ý
làm
cho
cá
sợ,
khỏi
đớp
mất)
rồi
bơi
thuyền
ra
giữa
sông,
ném
bánh
xuống
cúng
Khuất
Nguyên.
Ở
Việt
Nam,
ít
người
biết
chuyện
Khuất
Nguyên,
mà
chỉ
coi
mùng
Năm
tháng
Năm
là
"Tết
giết
sâu
bọ"-
vì
trong
giai
đoạn
chuyển
mùa,
chuyển
tiết,
dịch
bệnh
dễ
phát
sinh.
Vào
ngày
này,
dân
gian
có
nhiều
tục
trừ
trùng
phòng
bệnh.
Lấy
lá
ngải
cứu
(một
vị
thuốc
Nam),
năm
nào
thì
kết
hình
con
vật
tượng
trưng
năm
đó
(năm
Thân
-
kết
con
khỉ
và
gọi
là
Hầu
Tử,
năm
Dần
-
kết
con
cọp
và
gọi
là
Ngài
Hổ...)
treo
lên
giữa
nhà
để
trừ
tà.
Về
sau,
khi
có
bệnh,
lấy
lá
đó
sắc
làm
thuốc.
Lại
có
tục
đi
hái
lá
thuốc
mồng
năm
(ích
mẫu,
mâm
xôi,
cối
xay,
vối)
sắc
uống
vào
giờ
Ngọ,
còn
để
dành
nấu
uống
quanh
năm.
7.
Tết
Trung
nguyên
Tết
Trung
nguyên
vào
Rằm
tháng
Bảy.
Người
xưa
tin
theo
sách
Phật,
coi
hôm
ấy
là
ngày
vong
nhân
được
xá
tội,
ngày
báo
hiếu
cha
mẹ...
nên
tại
các
chùa
thường
làm
chay
chẩn
tế
và
cầu
kinh
Vu
lan.
Vào
ngày
Rằm
tháng
7
âm
lịch
có
2
ngày
lễ
cúng:
-
Lễ
cúng
được
truyền
tụng
lâu
đời
trong
dân
gian:
"Tháng
7,
ngày
rằm
xá
tội
vong
nhân"
(tha
tội
cho
tất
cả
người
chết),
nhiều
người
gọi
là
cúng
cô
hồn
các
đẳng.
Quan
niệm
dân
gian
cho
rằng
đây
là
lễ
cúng
những
linh
hồn
vật
vờ
lang
thang
không
nơi
nương
tựa,
không
còn
người
thân
ở
trần
gian
để
thờ
phụng
hoặc
thất
lạc,
hoặc
vì
một
oan
khiên
nào
đó...
-
Cũng
ngày
Rằm
tháng
Bảy
còn
có
lễ
Vu
lan,
xuất
phát
từ
tích
truyện
Đại
Mục
Kiều
Liên.
Vu
lan
được
coi
là
lễ
cầu
siêu
giải
thoát
cho
ông
bà
cha
mẹ
bảy
đời,
xuất
phát
từ
lòng
báo
hiếu.
Trong
những
năm
gần
đây,
trong
lễ
Vu
lan
còn
có
tục
"Bông
Hồng
cài
áo"
thể
hiện
lòng
hiếu
thảo
của
con
đối
với
cha
mẹ.
8.
Tết
Trung
thu
Tết
Trung
thu
vào
Rằm
tháng
Tám.
Trung
thu
là
tết
của
trẻ
con
nhưng
người
lớn
cũng
nhân
đây
mà
họp
mặt,
uống
rượu,
uống
trà,
ngắm
trăng...
Thường
ban
ngày
người
ta
làm
lễ
cúng
gia
tiên,
tối
mới
bày
hoa
quả,
bánh
kẹo,
chè
cháo
để
trẻ
con
vui
chơi,
phá
cỗ,
trông
trăng,
rước
đèn...
9.
Tết
Trùng
cửu
Mùng
Chín
tháng
Chín
(âm
lịch)
là
Tết
Trùng
cửu.
Tết
này
bắt
nguồn
từ
sự
tích
của
đạo
Lão.
Thời
Hán,
có
người
tên
gọi
là
Hoàn
Cảnh,
đi
học
phép
tiên.
Một
hôm
thầy
bào
Hoàn
Cảnh
khuyên
mỗi
người
trong
nhà
nên
may
một
túi
lụa
đựng
hoa
cúc,
rồi
lên
chỗ
cao
mà
trú
ngụ.
Quả
nhiên,
ngày
Chín
tháng
Chín
có
lụt
to,
ngập
hết
làng
mạc.
Nhờ
làm
theo
lời
thầy,
Hoàn
Cảnh
và
gia
đình
thoát
nạn.
Từ
xưa,
nho
sĩ
nước
ta
đã
theo
lễ
này,
nhưng
lại
biến
thành
cuộc
du
ngoạn
núi
non,
uống
rượu
cúc
-
gọi
là
thưởng
Tết
Trùng
dương.
10.
Tết
Trùng
thập
Đây
là
Tết
của
các
thầy
thuốc.
Theo
sách
Dược
lễ
thì
đến
ngày
Mười
tháng
Mười,
cây
thuốc
mới
tụ
được
khí
âm
dương,
mới
kết
được
sắc
tứ
thời,
trở
nên
tốt
nhất.
Ở
nông
thôn
Việt
Nam,
đến
ngày
đó
người
ta
thường
làm
bánh
dày,
nấu
chè
kho
để
cúng
gia
tiên
rồi
đem
biếu
những
người
thân
thuộc
chứ
không
quan
tâm
mấy
đến
chuyện
cây
thuốc,
thầy
thuốc!
11.
Tết
Hạ
nguyên
Tết
Hạ
nguyên
(Tết
Cơm
mới)
vào
Rằm
hay
mùng
Một
tháng
Mười.
Ở
nông
thôn,
Tết
này
được
tổ
chức
rất
lớn
vì
đây
là
dịp
nấu
cơm
gạo
mới
-
trước
để
cúng
tổ
tiên,
sau
để
tự
thưởng
công
cày
cấy.
12.
Tết
Táo
quân
Tết
Táo
quân
vào
ngày
23
tháng
Chạp
-
người
ta
coi
đây
là
ngày
"vua
bếp"
lên
chầu
Trời
để
tâu
lại
việc
bếp
núc,
làm
ăn,
cư
xử
của
gia
đình
trong
năm
qua.
Theo
truyền
thuyết,
xưa
có
hai
vợ
chồng
nghèo
khổ
quá,
phải
bỏ
nhau.
Sau
đó,
người
vợ
lấy
được
chồng
giàu.
Một
hôm,
đang
đốt
vàng
mã
ngoài
sân,
thấy
một
người
vào
ăn
xin,
nhận
ra
chính
là
chồng
cũ
nên
người
vợ
động
lòng,
đem
cơm
gạo,
tiền
bạc
ra
cho.
Người
chồng
mới
biết
chuyện,
nghi
ngờ
vợ.
Người
vợ
đâm
khó
xử,
lao
vào
bếp
lửa
tự
vẫn.
Người
chồng
cũ
nặng
tình,
cũng
nhảy
vào
lửa
chết
thao.
Người
chồng
mới
ân
hận,
đâm
đầu
vào
lửa
nốt!
Trời
thấy
ba
người
đều
có
nghĩa
nên
phong
cho
họ
làm
"vua
bếp".
Từ
tích
đó
mới
có
tục
thờ
cúng
"Táo
quân"
và
trong
dân
gian
có
câu:
"Thế
gian
một
vợ
một
chồng,
không
như
vua
bếp
hai
ông
một
ba"õ.
Ngày
nay
cứ
đến
phiên
chợ
23
tháng
Chạp
hàng
năm,
mỗi
gia
đình
thường
mua
hai
mũ
ông,
một
mũ
bà
bằng
giấy
và
3
con
cá
làm
"ngựa"
(cá
chép
hóa
rồng)
để
Táo
quân
lên
chầu
trời.
Sau
khi
cúng
trong
bếp,
mũ
được
đốt
và
3
con
cá
chép
được
mang
thả
ở
ao,
hồ,
sông...
Tết
và
các
kiểu
tặng
quà
Tết
Tặng
quà
cho
nhau
trong
mỗi
dịp
xuân
về,
Tết
đến
là
một
nét
đẹp
văn
hóa
truyền
thống
vốn
có
từ
lâu
đời
của
các
dân
tộc
trên
thế
giới.
Tùy
theo
phong
tục,
tập
quán
và
bản
sắc
văn
hoá
riêng
của
mỗi
nước,
mỗi
dân
tộc,
mỗi
vùng
mà
người
dân
có
một
tập
tục
tặng
quà
Tết
của
mình.
Ở
Việt
Nam
:
Tặng
quà
Tết
không
chỉ
đơn
thuần
là
quan
hệ
tình
cảm
mà
còn
biểu
hiện
nhưư
một
phép
ứng
xử
của
đạo
lý
làm
người.