| |
Luân
lý
Việt
Nam
coi
việc
thờ
phụng
tổ
tiên
là
một
bổn
phận
thiêng
liêng
của
con
cháu.
Thờ
phụng
phải
được
tiếp
nối
liên
tục
qua
các
đời.
Vì
vậy
mỗi
người
đàn
ông
phải
sớm
lập
gia
đình
để
mau
có
con
trai
nối
dõi,
lo
việc
đèn
nhang.
Sớm
là
bắt
đầu
từ
mấy
tuổi
?
Luật
lệ
ngày
xưa
không
ấn
định
tuổi
được
phép
lấy
vợ
lấy
chồng.
Chúng
ta
được
biết
vài
trường
hợp
trai
gái
lấy
nhau
khá
sớm
:
-
Gái
thập
tam,
nam
thập
lục
(gái
13,
trai
16),
-
Em
lấy
anh
từ
thuở
mười
ba
Đến
năm
mười
tám
em
đà
năm
con...
-
Cái
bống
cõng
chồng
đi
chơi
Đi
đến
chỗ
lội
đánh
rơi
mất
chồng...
Năm
1888,
nhà
nước
bảo
hộ
Pháp
ấn
định
con
gái
14
tuổi,
con
trai
16
tuổi
mới
được
làm
đám
cưới.
Tuy
không
thay
đổi
là
bao
so
với
13
và
16
tuổi,
nhưng
ít
ra
luật
pháp
cũng
chính
thức
cấm
tục
tảo
hôn(lấy
vợ
sớm),
không
cho
phép
con
trai
dưới
16
tuổi
lấy
vợ.
Tuy
bị
cấm,
nhưng
ở
nông
thôn
miền
Bắc,
hủ
tục
này
còn
rơi
rớt
đến
tận
những
năm
1940.
Một
vài
cậu
bé
con
nhà
giàu,
mới
lên
tám,
lên
mười
đã
được
cha
mẹ
cưới
cho
một
cô
vợ
lớn
gấp
hai,
ba
lần
tuổi
mình.
Thật
ra
mục
đích
của
cha
mẹ
cậu
bé
là
kiếm
một
người
giúp
việc
không
công,
chứ
chẳng
phải
là
lo
cho
con,
hay
cho
ông
bà
tổ
tiên.
Cha
mẹ
đặt
đâu,
con
ngồi
đấy
.
Con
gái
không
có
quyền
quyết
định.
Duyên
phận
phó
mặc
cho
may
rủi,
chọn
lựa
của
cha
mẹ.

Thân
em
như
hạt
mưa
rào
Hạt
rơi
xuống
giếng,
hạt
vào
vườn
hoa
Thân
em
như
hạt
mưa
sa
Hạt
vào
đài
các,
hạt
ra
ruộng
cày
Ý
muốn
của
chàng
trai
cũng
phải
được
cha
mẹ
chấp
nhận
thì
mọi
chuyện
mới
trôi
chảy
êm
đẹp.
Ngày
xưa,
lễ
nghi
cưới
xin
của
ta
bắt
chước
Tàu.
Rất
rườm
rà,
phức
tạp.
Theo
sách
Văn
công
gia
lễ
thì
cưới
xin
có
6
lễ
chính:
1-
Nạp
thái
:
nhà
trai
đến
nhà
gái
ngỏ
ý
2-
Vấn
danh
:
nhà
trai
hỏi
tên
tuổi
cô
gái
để
tính
ngày
giờ,
xem
có
bị
xung
khắc
không
?
3-
Nạp
cát
:
chọn
được
ngày
tốt,
xác
nhận
với
nhà
gái
4-
Nạp
tệ
:
đưa
đồ
thách
cưới
do
nhà
gái
ấn
định
5-
Thỉnh
kỳ
:
định
ngày
làm
lễ
cưới,
nộp
nữ
trang,
vải
vóc
cho
nhà
gái
6-
Nghinh
hôn
(thân
nghinh):
lễ
rước
dâu
Năm
1477
nhà
Lê
quy
định
rằng
:
Phàm
người
lấy
vợ,
trước
hết
phải
mượn
người
mối
đi
lại
bàn
định,
rồi
sau
mới
định
lễ
cầu
thân.
Lễ
cầu
thân
xong
rồi
mới
định
lễ
dẫn
cưới.
Dẫn
cưới
xong
rồi
mới
định
ngày
đón
dâu.
Ngày
hôm
sau
chào
cha
mẹ
chồng,
ngày
thứ
ba
đến
lễ
nhà
thờ.
Nghi
thức
tiết
mục,
phải
theo
đúng
như
điều
đã
ban
xuống
mà
làm.
Không
được
như
trước,
nhà
trai
dẫn
lễ
cưới
rồi
để
đến
3,
4
năm
mới
cho
đón
dâu.
Bắt
đầu,
nhà
trai
bắn
tin
thăm
dò.
Các
nhà
quyền
quý
thường
tìm
nơi
môn
đăng
hộ
đối
(gia
đình
tương
xứng).
Sau
khi
đã
được
nhà
gái
đồng
ý,
nhà
trai
mới
nhờ
ông
mai
hoặc
bà
mối
mang
trầu
cau
và
trà
tới
xin
dạm.
Đẹp
như
rối,
không
mối
không
xong
Vai
trò
trung
gian
của
ông
mai
bà
mối
rất
quan
trọng.
Lễ
dạm
tương
đương
với
ba
lễ
đầu
của
ngày
xưa.
|
Trầu
cau
luôn
luôn
có
mặt
trong
các
lễ
cưới
hỏi
của
người
Việt
Nam.
Truyền
thuyết
kể
rằng
:
Ngày
xưa
có
hai
anh
em
nhà
kia,
hơn
nhau
một
tuổi
và
giống
nhau
như
đúc(có
người
kể
là
hai
anh
em
sinh
đôi).
Cha
mẹ
mất
sớm.
Được
17,
18
tuổi,
hai
anh
em
đến
xin
trọ
học
tại
nhà
một
đạo
sĩ.
Học
hành
chăm
chỉ,
tính
tình
đứng
đắn,
cả
hai
được
thầy
yêu
quý.
Thầy
có
người
con
gái
tuổi
trăng
tròn,
xinh
đẹp
dịu
hiền.
Cô
gái
đem
lòng
yêu
mến
hai
anh
em.
Ít
lâu
sau
cô
xin
phép
cha
lấy
người
anh
làm
chồng.
Từ
ngày
lập
gia
đình,
người
anh
quấn
quýt
bên
cô
vợ
trẻ,
lơ
là
với
em.
Người
em
cảm
thấy
lẻ
loi.
Một
hôm
hai
anh
em
cùng
lên
nương
làm
việc
đồng
áng,
tối
trời
mới
về.
Người
em
vào
nhà
trước.
Chị
dâu
trong
buồng
chạy
ra,
tưởng
là
chồng
mình,
vội
ôm
chầm
lấy.
Người
em
lúng
túng
kêu
lên.
Hai
người
cùng
ngượng
ngùng
xấu
hổ.
Được
chứng
kiến
cảnh
vợ
và
em
ôm
nhau,
người
anh
đem
lòng
nghi
ngờ.
Từ
đó
tình
anh
em
lại
càng
lạnh
nhạt.
Một
buổi
chiều
kia,
anh
chị
đi
vắng,
người
em
cảm
thấy
cô
đơn,
buồn
tủi,
quyết
định
bỏ
nhà
ra
đi.
Chàng
đi,
đi
mãi
đến
một
khu
rừng,
có
con
suối
chắn
ngang.
Màn
đêm
xuống
dần...
Mỏi
mệt,
đói
khát,
buồn
chán,
chàng
lịm
thiếp
đi
rồi
chết.
Xác
chàng
biến
thành
một
tảng
đá.
Vợ
chồng
người
anh
về
nhà
không
thấy
em.
Qua
ngày
hôm
sau
vẫn
vắng
bóng.
Người
anh
lẳng
lặng
bỏ
nhà
đi
tìm.
Đến
khu
rừng,
cạnh
con
suối,
ngồi
tựa
lưng
vào
tảng
đá
nghỉ
mệt.
Thương
nhớ
em...
Chàng
thiếp
đi,
chết
giữa
đêm
khuya,
hóa
thành
một
cây
mọc
thẳng
bên
cạnh
tảng
đá.
Đến
lượt
người
vợ
trông
chờ
mãi
không
thấy
chồng
về,
cũng
lần
theo
con
đường
mòn
đến
cạnh
bờ
suối.
Đêm
đó
nàng
chết,
hóa
thành
một
cây
leo,
quấn
chặt
thân
cây
cao.
Một
hôm
vua
Hùng
Vương
đi
qua
chốn
ấy.
Nghe
dân
làng
kể
chuyện,
vua
sai
người
lấy
lá
cây
leo,
hái
quả
cây
cao.
Nghiền
lá
với
quả
thì
thấy
một
mùi
thơm
nhẹ
nhàng
toát
ra.
Nhai
thử
thì
thấy
vị
cay,
tê
tê
đầu
lưỡi.
Nước
tiết
ra,
nhổ
lên
tảng
đá
thì
thấy
một
màu
đỏ
thắm
hiện
lên.
Dân
làng
đặt
tên
cây
cao
là
cau,
cây
leo
là
trầu,
tảng
đá
là
vôi.
Nước
ta
có
tục
ăn
trầu
từ
đó.
|
Trầu
cau
tượng
trưng
cho
tình
nghĩa
thủy
chung,
thắm
thiết.
Miếng
trầu
là
đầu
câu
chuyện,
trong
cuộc
sống
hàng
ngày,
mỗi
khi
gặp
gỡ
nhau
người
ta
cũng
thường
mời
nhau
miếng
trầu.
Ngày
nay
miếng
trầu
có
thêm
tí
vỏ,
ít
thuốc
lào,
càng
làm
tăng
thêm
hương
vị.
Sau
lễ
dạm
đến
lễ
nạp
tệ,
hay
thách
cưới.
Nhà
gái
đưa
ra
một
danh
sách
những
đồ
vật
và
tiền
bạc
bắt
nhà
trai
phải
nộp.Thông
thường
thì
cũng
phải:
Giúp
em
một
thúng
xôi
vò
Một
con
lợn
béo,
một
vò
rượu
tăm
Giúp
em
đôi
chiếu
em
nằm
Đôi
chăn
em
đắp,
đôi
trằm
em
đeo
Giúp
em
quan
tám
tiền
cheo
Quan
năm
tiền
cưới,
lại
đèo
buồng
cau
Chàng
trai
nói
giúp
cho
lịch
sự
chứ
thật
ra
là
bị
bắt
buộc.
Có
khi
nhà
gái
thách
cao,
đòi
bò,
đòi
trâu,
vòng
vàng,
xà
tích
bạc...
Năm
1663
vua
Lê
Huyền
Tông
ban
điều
giáo
hóa
:
Vợ
chồng
là
gốc
luân
thường,
lấy
vợ,
gả
chồng
phải
theo
lễ
nghĩa,
không
được
suy
bì
giàu
nghèo,
đòi
nhiều
tiền
của.
Lấy
nhau
phải
phân
biệt
họ
hàng,
nòi
giống,
không
được
tham
giàu
sang
mà
phối
hợp
loạn
luân
thường,
không
được
cẩu
hợp
không
có
sính
lễ
để
đến
nỗi
gần
như
giống
cầm
thú...
Năm
1804
vua
Gia
Long
định
lệ
:
Trai
lấy
vợ,
gái
lấy
chồng
thì
sính
lễ
phải
châm
chước.
Trong
6
lễ
phải
tùy
sức
nhà
trai
giàu
nghèo,
không
được
bắt
ép
viết
văn
khế
cầm
ruộng...
Bên
cạnh
thách
cưới,
nhà
trai
còn
phải
nộp
cheo
cho
làng
cô
gái.
Có
nộp
cheo
mới
được
làng
công
nhận
chuyện
cưới
xin.
Xưa
kia
nước
ta
không
có
sổ
sách
hộ
tịch.
Khi
nhận
tiền
nộp
cheo,
làng
viết
giấy
chứng
nhận.
Giấy
này
có
giá
trị
như
giấy
giá
thú
ngày
nay.
Đám
cưới
nào
không
nộp
cheo
thì
cặp
vợ
chồng
đó
sẽ
bị
làng
coi
như
sống
lén
lút
:
Có
cưới
mà
chẳng
có
cheo
Dẫu
rằng
có
giết
mười
heo
cũng
hoài
Nộp
cheo
bằng
đồ
vật
hay
tiền
bạc.
Có
làng
bắt
nộp
chiếc
mâm
đồng,
ít
chén
bát
để
dùng
cho
hội
hè
đình
đám.
Có
nơi
đòi
ít
gạch
để
lót
lại
quãng
đường
hư
hỏng,
hay
một
ít
vật
liệu
để
sửa
cái
cầu,
giếng
nước...
Luật
xưa
quy
định
:
Bất
cứ
ở
cùng
một
làng
hay
làng
khác
đều
cho
phép
thu
cheo
một
quan
tiền
cổ
và
một
vò
rượu.
Quan
viên
và
binh
lính
ở
xã
thôn
nhà
gái
không
được
viện
cớ
người
ta
lấy
chồng
làng
khác
mà
đòi
tiền
cheo
quá
lạm
(1663).
Về
tiền
cheo
thì
nhà
giàu
phải
nộp
1
quan
5
tiền,
nhà
bậc
trung
nộp
6
tiền,
nhà
nghèo
nộp
3
tiền
(1804).
Tuy
luật
quy
định
như
vậy
nhưng
trong
thực
tế
vẫn
có
sự
phân
biệt
người
cùng
làng
hay
khác
làng.
Và
tiền
cheo
thường
bắt
nộp
quá
mức
luật
định.
Nhà
trai
sắm
sửa
đủ
đồ
thách
cưới
thì
lảm
lễ
hỏi
,
mang
tới
nộp
nhà
gái.
Sau
lễ
hỏi,
nhà
trai
phải
năng
lui
tới
thăm
hỏi,
sêu
tết
nhà
gái.
Mùa
nào
thức
ấy:
nhãn,
vải,
hồng,
cốm...trong
khi
chờ
đợi
lễ
cưới.
Lễ
cưới,
còn
gọi
là
rước
dâu,
đón
dâu,
tên
chữ
là
nghinh
hôn,
là
lễ
quan
trọng
nhất.
Lễ
cưới
phải
chọn
ngày
tốt,
đón
dâu
phải
lựa
giờ
tốt.
Ngày
xưa
có
tục
đón
dâu
vào
buổi
tối.
Nhà
trai
mang
trầu
cau,
rượu,
xôi,
gà,
lợn...đến
nhà
gái.
Dẫn
đầu
là
một
cụ
già,
không
có
tang,
vợ
chồng
song
toàn,
lắm
con
nhiều
cháu.
Cụ
già
mặc
áo
thụng
xanh,
cầm
bó
hương
hay
ôm
lư
trầm.
Theo
sau
là
những
người
đội
lễ
vật,
tiếp
đến
chú
rể,
họ
hàng.
Ngày
xưa
chú
rể
đội
nón.
Đến
đầu
thế
kỷ
20,
chú
rể
tân
thời
bỏ
chiếc
nón,
thay
bằng
cái
ô
tây,
miệng
phì
phèo
thuốc
lá.
Ngoài
Bắc,
chỉ
có
cha
chú
rể
đi
đón
dâu.
Trong
Nam,
cha
mẹ
chú
rể
cùng
đi.
|
Trên
đường
đến
nhà
gái,
nhà
trai
thường
bị
những
người
nghèo
và
trẻ
con
tổ
chức
bày
hương
án,
chăng
giây
ngăn
cản.
Mục
đích
của
đám
này
là
đòi
ăn
uống,
tiền
bạc,
họa
hoằn
mới
để
mua
vui.
Muốn
cho
mọi
chuyện
được
êm
đẹp,
khỏi
bị
quấy
phá,
chửi
rủa
tục
tằn,
làm
chậm
trễ
buổi
lễ,
nhà
trai
thường
phải
chiều
ý
chúng.
Khi
nhà
trai
tới
đầu
ngõ,
nhà
gái
đốt
pháo
đón
mừng.
Người
chủ
hôn
hoặc
cha
chú
rể
đứng
ra
tuyên
bố
xin
đón
dâu.
Đại
diện
mẹ
chú
rể
bưng
trầu
cau
đặt
trước
mặt
nhà
gái
để
xin
con
dâu.
Nhà
gái
mời
đại
diện
nhà
trai
cùng
cô
dâu
chú
rể
làm
lễ
cáo
gia
tiên
.
Đây
cũng
là
một
dịp
để
trẻ
con
bên
nhà
gái
đóng
cửa
nhà
thờ
nhõng
nhẽo
vòi
tiền
nhà
trai.
Sau
đó,
nhà
trai
xin
rước
dâu.
Ngoài
Bắc,
cha
mẹ
cô
dâu
không
đưa
tiễn
con
gái
về
nhà
chồng.
Trong
Nam,
nhà
gái
cũng
kén
một
cụ
già
cầm
bó
hương
đi
trước,
theo
sau
là
cô
dâu
và
cha
mẹ
họ
hàng,
bạn
bè
đưa
tiễn.
Đám
rước
dâu
vẫn
do
cụ
già
của
nhà
trai
cầm
bó
hương
dẫn
đầu,
đằng
sau
là
hai
họ.
Đoàn
người
về
tới
đầu
ngõ
thì
nhà
trai
đốt
pháo
chào
mừng.
Trong
lúc
đi
đường,
cô
dâu
ăn
mặc
đẹp
sợ
bị
thiên
hạ
quở
quang,
phải
cài
vài
cái
kim
vào
choàng
áo
để
trấn
áp
những
câu
nói
độc
mồm
độc
miệng.
Giữa
bậc
cửa
vào
nhà
chú
rể
đặt
một
hỏa
lò
than
hồng
để
cô
dâu
bước
qua.
Than
hồng
sẽ
đốt
hết
những
vía
xấu
đi
theo
quấy
phá
cô
trên
đường
về
nhà
chồng.
Trước
khi
cô
dâu
bước
vào
nhà,
mẹ
chú
rể
xách
bình
vôi
lánh
mặt
một
lúc
lâu
rồi
mới
về
chào
mừng
hai
họ.
Có
ngườì
cho
rằng
bình
vôi
tượng
trưng
cho
của
cải
trong
nhà.
Lại
có
người
cho
rằng
bình
vôi
là
một
tục
bái
vật
cổ
truyền
xa
xưa
của
dân
ta.
Bình
vôi
là
bà
chúa
trong
nhà,
chưa
ai
định
danh
là
bà
chúa
gì,
nhưng
bình
vôi
tượng
trưng
cho
uy
quyền
chúa
nhà,
nhà
nào
cũng
có
bình
vôi.
Khi
làm
vỡ
bình
vôi
thì
đem
mảnh
bình
còn
lại
cất
ở
chỗ
uy
nghiêm
hoặc
đưa
lên
đình
chùa,
không
vứt
ở
chỗ
ô
uế.
Tại
sao
bình
vôi
lại
là
uy
quyền,
của
cải
?
Chữ
vôi
(nôm)
được
viết
bằng
chữ
khôi
(hán
việt).
Khôi
chính
nghĩa
là
tro,
là
màu
xám.
Chữ
khôi
có
nhiều
từ
đồng
âm.
Trong
đó
có
chữ
khôi
(bộ
quỷ)
nghĩa
là
đứng
đầu
và
chữ
khôi
(bộ
ngọc)
nghĩa
là
quý
báu.
Do
đó
cái
bình
vôi
của
ta
được
dùng
để
tượng
trưng
cho
người
đứng
đầu
và
của
cải.
Bà
mẹ
chồng
giữ
bình
vôi
để
bảo
vệ
uy
quyền
của
mình
và
của
cải
của
gia
đình.
Chiếc
bình
vôi
chỉ
là
một
suy
diễn
chữ
nghĩa
của
giới
bình
dân
chứ
không
mang
nội
dung
thần
thánh.
Ý
kiến
cho
rằng
bình
vôi
là
bà
chúa
chưa
ai
định
danh
là
bà
chúa
gì
và
bình
vôi
là
tục
bái
vật
có
lẽ
đã
vượt
quá
xa
khả
năng
suy
diễn
hán
nôm
của
giới
bình
dân
!
Có
nơi
chờ
đám
rước
dâu
về
tới
đầu
ngõ,
một
người
lấy
chày
giã
vào
cối
đá,
đôi
khi
giã
mạnh
đến
vỡ
cả
cối.
Tục
ấy
thì
ngộ
quá,
không
hiểu
ý
làm
sao
(Phan
Kế
Bính).

Giã
cối
là
một
tục
cổ,
có
từ
thời
đại
Hùng
Vương.
Giã
cối
cũng
là
một
tục
lệ
ngày
hội.Từng
đôi
nam
nữ
cầm
chày
dài
đứng
giã
cối
tròn.Đó
là
những
chiếc
cối
rỗng,
là
một
thứ
dụng
cụ
nông
nghiệp,
đồng
thời
là
nhạc
cụ,
và
cũng
là
vật
tượng
trưng
cho
sự
sinh
sôi
nảy
nở.
Trở
thành
một
tiết
mục
trong
ngày
hội
lễ,
giã
cối(và
hát)
vừa
là
hình
thức
biểu
diễn
và
thưởng
thức
văn
nghệ
vừa
là
trò
chơi
và
hình
thức
giao
duyên
nam
nữ,
vừa
mang
ý
nghĩa
cầu
mong
sinh
sản
thịnh
vượng.
Chày
cối,
theo
quan
niệm
dân
gian,
là
hình
giống
của
nam
và
nữ.
Giã
cối,
ở
một
số
nơi,
còn
có
ý
nghĩa
tượng
trưng
cho
hành
động
tính
giao.
Cô
dâu,
chú
rể
cùng
lễ
tổ
ở
nhà
thờ
họ
nhà
trai,
rồi
trở
về
nhà
chú
rể
lễ
gia
tiên,
chào
mừng
cha
mẹ,
họ
hàng
bên
chồng.
Con
gái
là
con
người
ta
Con
dâu
mới
thật
mẹ
cha
mua
về
Từ
giờ
phút
này,
cô
dâu
trở
thành
một
người
của
gia
đình
bên
chồng.
|
Có
nơi
còn
làm
lễ
tơ
hồng,
cám
ơn
Nguyệt
Lão
đã
xe
duyên
cho
đôi
trẻ.
Tích
Nguyệt
Lão
kể
rằng
:
Đêm
trăng,
Vi
Cố
đi
chơi
gặp
một
ông
già
ngồi
đọc
sách,
tay
cầm
nắm
dây
tơ
màu
đỏ.
Vi
Cố
chào
hỏi,
ông
già
tự
xưng
là
Nguyệt
Lão
chuyên
việc
xe
duyên
cho
nhân
gian.
Dây
tơ
đỏ
để
buộc
chân
những
cặp
vợ
chồng
có
tên
trong
sách.
Vi
Cố
tò
mò
muốn
biết
ai
sẽ
là
vợ
tương
lai
của
mình.
Nguyệt
Lão
tra
sách,
trả
lời
là
đứa
bé
gái,
con
người
ăn
mày
ngoài
chợ.
Vi
Cố
tức
giận.
Hôm
sau
ra
chợ
tìm
giết
đứa
bé.
Đứa
bé
bị
Vi
Cố
chém
một
nhát
trúng
đầu,
ngất
đi.
Về
sau
Vi
Cố
kết
duyên
cùng
con
gái
một
vị
quan
to.
Một
hôm
thấy
vết
sẹo
trên
đầu
vợ,
hỏi
ra
mới
biết
rằng
thuở
nhỏ
nàng
bị
một
người
chém
giữa
chợ,
được
quan
cứu
sống,
đem
về
nuôi.
Tối
hôm
cưới,
gọi
là
tối
động
phòng,
làm
lễ
hợp
cẩn.
Hai
vợ
chồng
cùng
uống
chung
một
chén
rượu.
Cưới
được
ba
ngày,
đến
ngày
thứ
tư
thì
hai
vợ
chồng
mang
xôi
chè,
trầu
rượu
về
nhà
bố
mẹ
vợ
lễ
gia
tiên,
gọi
là
lễ
lại
mặt
hay
tứ
hỉ.
Luật
xưa
nghiêm
cấm
cử
hành
lễ
cưới
trong
lúc
gia
đình
có
tang
từ
một
năm
trở
lên
(tang
ông
bà,
chú
bác,
cha
mẹ).
Nhà
trai
hoặc
nhà
gái
gặp
lúc
gia
đình
có
cha
mẹ,
ông
bà
hay
chú
bác
đau
ốm
nặng,
thường
cho
cử
hành
gấp
lễ
cưới.
Nếu
có
người
chết,
phải
làm
đám
cưới
trước
khi
phát
tang.
Cưới
vội
vã
như
vậy
gọi
là
cưới
chạy
tang.
Xã
hội
Việt
Nam
đã
thay
đổi
sâu
xa.
Phần
đông
trai
gái
ngày
nay
lấy
nhau
ở
độ
tuổi
từ
20
đến
30.
Họ
có
nhiều
dịp
gặp
gỡ,
tìm
hiểu
nhau
trước
khi
quyết
định
làm
đám
cưới.
Cha
mẹ
được
hỏi
ý
kiến
nhưng
không
còn
nắm
vai
trò
quyết
định
nữa.
Nhờ
đó
mà
hủ
tục
môn
đăng
hộ
đối
không
còn
nữa.
Nghi
lễ
được
tổ
chức
đơn
giản
để
đỡ
tốn
thời
gian.
Lễ
hỏi,
lễ
cưới
chỉ
có
trầu
cau,
trà
bánh
và
rượu.
Lễ
gia
tiên
còn
được
giữ,
các
lễ
khác
thường
bỏ
qua.
Nhiều
nơi
rước
dâu
bằng
xe
hơi.
Ở
nước
ngoài,
các
cô
dâu
Việt
Nam
thường
mặc
áo
dài
thêu
rồng
vẽ
phượng,
đầu
đội
khăn
vành,
màu
đỏ
màu
vàng,
trong
khi
ở
trong
nước
các
cô
lại
chuộng
chiếc
áo
cưới
cồng
kềnh
lết
đất
của
Âu
Mỹ.
Chiều
tối
hai
họ
cùng
tổ
chức
mời
bạn
bè
ăn
uống.
Cô
dâu
thay
ba
bốn
bộ
quần
áo,
giống
như
một
cuộc
trình
diễn
thời
trang.
(20/9/2000)
Sách
báo
tham
khảo:
-
Phan
Kế
Bính,Việt
Nam
Phong
Tục,
Tổng
Hợp
Đồng
Tháp,
1990.
-
Toan
Ánh,
Phong
Tục
Việt
Nam,
Khai
Trí,
1968.
-
Nhất
Thanh
Vũ
Văn
Khiếu,
Đất
Lề
Quê
Thói,
Saigon,
1968.
-
Nhiều
tác
giả,
Thời
đại
Hùng
Vương,
Khoa
Học
Xã
Hội,
1976.
-
http://www.vnn.vn/vnn3/phongtuc/gio_tet/bai_vat.htm
-
Đào
Duy
Anh,
Hán
Việt
từ
điển,
Trường
Thi,
1957.
|
Phong
tục
tập
quán
Trang
Chính
|